9 thg 3, 2014

Luân Đôn - trải nghiệm một mùa hè


“Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.”

   Nói xong câu ca dao mà mẹ cho là vĩ đại ấy, bà quăng luôn tôi sang Anh phụ việc với dì cho tới hết mùa hè. Chán thật.

---------`(^0^)’---------

   Mấy ngày nay Luân Đôn mưa tầm tã, cứ như ông trời nóng giận mà trút cả xuống thành phố hoa lệ này. Có lẽ nhờ đó mà quán vắng hẳn, tầng dưới chỉ còn dăm ba người, tầng trên thì vẫn vậy. Tôi yêu nơi này, yêu ngay từ cái khoảnh khắc đầu tiên tôi đặt chân vào quán, ngay khi hương cà phê nồng nàn quen thuộc sực bay vào mũi, khi những ca khúc êm dịu được cất lên. Dì tôi làm việc cho một công ty bất động sản tại Anh, còn cái quán cà phê sách này dì mở ra chỉ là nghề tay trái, kiếm thêm chút lời cũng như tạo công ăn việc làm cho mấy du học sinh đồng hương để trang trải cuộc sống. Chẳng biết từ đâu mà dì tìm được mặt bằng quá tuyệt, nên quán thường ngày vẫn đông khách lắm. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, tầng dưới đơn giản chỉ là chỗ dừng chân cho người qua đường, khi cổ họng đột nhiên khô rát. Nó luôn ồn ào và náo nhiệt. Người ta tới chỉ để ngồi chụp ảnh, trò chuyện hay đơn giản hơn là mua một cốc cà phê mang đi. Chẳng ai nhớ rằng đây là một quán cà phê sách, dường như trong tâm trí họ chữ “sách” đã bị quẳng mất rồi. Kệ sách nhỏ ở đó dì bảo ban đầu có rất nhiều sách hay, song bây giờ chỉ toàn mấy tờ báo lá cải và vài cuốn sách đang nổi cho ra vẻ mà thôi. Tôi thường để nhỏ em họ quản lí tầng dưới, vì nó có vẻ rất hợp với nơi đó.

   Tôi phụ trách tầng trên, nơi thật sự mới là một quán cà phê sách. Ở đây, bốn bề là các kệ sách. Sách lớn nhỏ mới cũ đều có mặt. Hầu hết đều là tiếng Anh song vẫn đan xen vài tác phẩm Việt Nam như một cách để dì, hay những con người đất Việt tình cờ ghé đến nhớ về quê nhà. Tầng trên lúc nào cũng le que vài người, yên ắng lạ lùng. Tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là những bản hòa tấu dịu êm, tiếng lật sách nhẹ nhàng và tiếng lạch cạch của bàn phím. Có cô gái đến đây mỗi ngày, như đang cố gắng đọc hết các kệ sách kia. Rồi còn có ông nhà văn nào đó, gọi duy có hai hay ba tách cà phê mà ngồi từ sáng tới chiều cùng cái laptop của ông, xung quanh bày ngập những sách. Hầu hết những người ở đây mới là những người thật sự quan tâm đến sách, cần nơi yên tĩnh để đọc hay làm việc, và bước vào đây như bước vào một quán cà phê sách thật sự.




 Trời mưa, như tôi đã nói ở trên, nên nhỏ em họ chẳng thèm lui tới nữa. Tôi phải thay nó quản lí luôn cả tầng dưới, kể ra cũng không khó lắm. Rồi có một người thu hút ánh nhìn của tôi. Ở một bàn phía trong góc khuất gần cửa ra vào, luôn có một chàng trai, rất đẹp, mang theo cuốn sách của riêng mình và ngồi đó, trông yên bình đến lạ. Mái tóc hơi quăn, rũ khỏi trán một chút cùng gọng kính che đi cửa sổ tâm hồn anh. Anh đến để đọc sách. Đôi mắt anh luôn chăm chú vào cuốn sách mà anh đọc, đôi lúc ngẩng lên đưa ánh nhìn xa xăm, suy tư vào màn mưa tĩnh mịch bên kia khung cửa kính. Rồi những khi trời tạnh mưa, tầng trệt bắt đầu đông khách. Khi ấy, anh luôn bị các ánh nhìn từ nhiều cô nàng chăm chú dõi theo, đầy khát khao và ngưỡng mộ. Trông anh khi ấy khó chịu vô cùng, nhưng chẳng biết làm sao giải quyết. Lúc tôi xuống lầu dọn dẹp mấy tách cà phê của mình, anh đụng phải tôi trong lúc chạy trốn khỏi mấy cô nàng nhốn nháo xin anh số điện thoại, hay tìm cách liên lạc, bắt chuyện với anh. Trông anh khốn khổ đến buồn cười. Tôi khi ấy bất giác mở miệng:

-          Anh có muốn đến quán cà phê sách thật sự không?

   Anh đưa mắt nhìn tôi, ánh nhìn tỏ rõ sự kì lạ và khó hiểu. Lúc này, tôi mới quan sát được đôi mắt mà tôi luôn tò mò. Qua cặp kính, với mi dài cong vút, đôi mắt anh mang màu xanh của trời và biển, mênh mông đến khó nắm bắt, đẹp nhưng buồn.

-          Đi theo tôi. – Tôi nói.

   Tôi đưa anh vào một lối hành lang nhỏ hẹp, bước lên cầu thang cũng hẹp nốt, tới trước cánh cửa gỗ màu nâu đỏ được trang trí bằng đôi cành dây leo. Đẩy cửa, chúng tôi như bước vào một thế giới khác, trái ngược hoàn toàn với không gian dưới kia, yên tĩnh và thơm mùi sách, bước vào cái nơi mà chỉ khi khách hỏi tới chữ “sách”, nhân viên quán mới chỉ cho họ, và tất nhiên, hầu như chẳng ai hỏi tới. Đôi mắt anh mở to, đầy ngỡ ngàng cũng như thích thú. Anh bước ngay đến bên các kệ ngập những sách, lấy đôi tay to lớn lướt qua gáy nhiều quyển sách rồi lấy cho mình một cuốn, chăm chú nhìn vào tựa đề, rồi anh đi tiếp, tìm cho mình thêm nhiều cuốn sách khác nữa. Trông anh bây giờ như trẻ con ấy, và ánh buồn trông mắt anh cũng biến mất theo niềm vui thích mà anh đang có. Hẳn anh phải yêu sách lắm, yêu vô cùng, như tình yêu của tôi với chúng vậy.

   Từ ngày hôm ấy, anh đã xen chân vào cuộc sống chỉ có quán và sách của tôi ở Luân Đôn. Không phải là tôi không đi thăm thú gì hay công việc quá nhiều, vì dì cũng bảo tôi cứ đi chơi cho đã cũng được kia mà, nhưng thật sự tôi không thích sự cô độc khi phải đi  một mình, cũng như cái hơi ẩm ướt mù sương của thành phố. Nói trắng ra, tôi muốn có ai đó đi cùng, một người bạn chẳng hạn. Và anh đã xuất hiện, lắp mình vào chỗ trống ấy. Mối quan hệ của chúng tôi bắt đầu với những mẫu trò chuyện nhỏ, rời rạc về cà phê và sách, những cuốn sách hay mà tôi đã đọc, những bài học mà anh tìm thấy từ chúng. Rồi, anh kể tôi nghe về cuộc đời sinh viên của anh, còn tôi nói với anh về bản thân và quê nhà, cái đẹp của Việt Nam, về sự nhớ nhà của tôi, và cả sự cô độc chẳng muốn đi đâu thăm thú. Anh và tôi lập một giao kèo nhỏ, rằng tôi sẽ dạy anh tiếng Việt, bù lại, anh sẽ là người bạn cùng tôi du ngoạn, là một hướng dẫn viên cho tôi tại Luân Đôn.




  
 Chúng tôi dần thân nhau hơn, và anh đã chiếm một phần không nhỏ trong tôi, dù chúng tôi biết nhau không quá hai tuần. Tôi bắt đầu thích ngắm nhìn anh huyên thuyên về mấy cuốn sách tuyệt vời mà anh đọc được, mặc dù bình thường tôi mới là người nói luôn mồm  về mấy cái ấy, khiến lũ bạn sau rốt chỉ ừ hử để tôi không nói nữa. Tôi thích cách anh cười, như có nắng ấy, phát ra từ hàm răng trắng đều và cái lúng đồng tiền má trái. Không biết tự lúc nào, tôi bắt đầu buồn miên man những ngày không thấy bóng anh ở quán, nghĩ vẩn vơ và cười một mình mỗi khi nhớ đến anh, hay bắt gặp một cuốn sách nào đó mà anh hay nói đên. Và tôi phát hiện mình hạnh phúc đến lạ mỗi khi nghe anh chuyện trò, hay đơn giản hơn là khi anh đẩy cánh cửa gỗ bước vào thế giới thơm mùi cà phê và sách. Tôi mang chuyện này lên facebook tám với con bạn thân, sẵng gửi luôn nó mấy tấm ảnh Luân Đôn tôi chụp được. Tôi lưỡng lự lách cách đánh:

   “Ê, mày có nghĩ là tao… ừ thì tao… yêu ảnh rồi không?”

Cuộc trò chuyện nãy giờ tự nhiên tắt ngấm. Tôi chẳng biết có gì xảy ra bên đó nữa, hay chăng nhỏ té ghế rồi. Năm phút, không, chính xác là bốn phút năm mươi hai giây sau, một dòng tin nhắn dài thòng, độc một dấu phẩy, được gửi qua cho tôi, đọc mà cứ muốn đứt hơi ấy.

   “Tao đã suy nghĩ rất kĩ về cái thứ tình cảm của mày mà mày nói là mày đối với ảnh trong vòng bốn phút nhưng tao lại không nghĩ đó là tình yêu mà tao nghĩ đó là tình cảm bạn bè đầy cảm kích quan tâm mà mày có với một người khác giới nơi đất khách không bạn bè đồng trang lứa trò chuyện, còn nếu mà mày không đồng ý với ý kiến của tao thì tao xin nói cho mày nghe dù cho có là nặng lắm thì tối đa là mày bây giờ chỉ có thể là cảm nắng mà thôi.”

   Là “cảm nắng” sao, có thật không kia chứ? Tôi chưa yêu bao giờ nên chẳng biết nữa. Nếu nói là tôi chưa từng quen ai thì cũng không đúng, song đó chỉ là tình cảm một bên của họ, tôi nhận lời, đi chơi cùng vài buổi, trò chuyện rồi cứ thế mà chia tay thôi. Những cuộc tình ấy cứ thoáng qua như những chuyến hành trình, những bước đi mà tôi phải có, để lại cho tôi vài kinh nghiệm về việc được ai đó yêu thương. Tôi bỏ mặc cái tin nhắn dài ngoằng ấy luôn. Cứ kệ đi, dù tôi có là yêu anh hay phải lòng say nắng thì cũng chẳng quan trọng mấy. Tôi tốt nhất cứ thế này hưởng thụ hết những ngày hè Luân Đôn có anh đi đã.

   Anh thực hiện lời hứa của mình, cùng tôi đi dạo quanh hưởng thụ cái đẹp của thành phố mù sương này. Anh dắt tôi đi qua những địa danh mà anh cho là đẹp nhất ở Luân Đôn. Mang cái máy ảnh chuyên dụng mà tôi mất không ít năm dành dụm đi lòng vòng thành phố, tôi lắp đầy nó bằng những công trình nghệ thuật tuyệt vời, chúng thật sự khiến tôi muốn thi vào kiến trúc, và ghi lại cả những nụ cười mà tôi có cùng anh. Chắc mọi người ai cũng có thể đoán chúng tôi đi qua đâu rồi hen. Sau khi đi tàu ra tham quan giáo đường cổ kính St Paul đẹp tuyệt vời mà tôi luôn mơ ước được chứng kiến dù chỉ một lần trong đời, chúng tôi trở về dạo một vòng quanh khu trung tâm ngắm nhìn tháp Big Ben sừng sững, thử một vòng London Eye, rồi chúng tôi len xuống phố Portobello nổi danh đầy du khách kiếm mấy cái quà lưu niệm hay hay mang về. Nói là nói thế chứ chúng tôi đi chỉ ngắm, chứ nào có mua được gì nhiều, toàn là lặt vặt. Phố đông khủng, có lẽ do hôm nay là thứ bảy, ngày nhộn nhịp nhất. Phố bày hàng mới cũ lớn nhỏ đủ loại, nhưng xét đi xét lại thì tôi cũng chẳng ưng ý cái nào lắm, đẹp thì mắc quá còn rẻ thì chẳng đâu vào đâu, được cái giá không chát bằng mấy trung tâm sầm uất. Lượn qua lượn lại, cuối cùng thì mua thêm hai ly cà phê takeaway, rồi chúng tôi tản bộ tới quảng trường Trafalgar. Chúng tôi vừa đi vừa tán đủ chuyện trên đời, lâu lâu lại ghé qua mấy hàng sách nghía xem có gì đặc biệt. Đáp ứng đòi hỏi vô lí của tôi, anh lại phải cùng tôi đi xe buýt vòng ngược lại xem điện Buckingham và hằng hà sa số các địa danh vào những ngày khác nữa. Tuyệt nhất là khi chúng tôi đến viện bảo tàng Sherlock Holmes số 221b đường Baker, địa chỉ nổi tiếng nhất thế giới. Đôi mắt tôi như sáng rỡ lên trước các hiện vật thật sự đến từ chính bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất mà tôi từng đọc. Anh đã phải bụm miệng tôi lại để tôi không phải hét lên, hơi ấm từ bàn tay anh truyền đến như giúp tôi giữ lấy những giọt bình tĩnh cuối cùng của mình. Giờ nghĩ lại chuyến đi như một giấc mơ thần tiên vậy. Khi ấy, tôi có bị đâm chết cũng mãn nguyện.



   Sau rốt, vào tuần cuối cùng trước khi tôi về nước, anh cùng tôi dạo dọc sông Thames huyền thoại, ngắm hoàng hôn đang buông xuống. Tôi chẳng hiểu được thần mặt trời có ác cảm gì với thành phố đẹp một cách cổ kính này, mới hơn bốn giờ chiều mà đã muốn lặng mất tăm. Những tia nắng cuối ngày, len lỏi trải dài như dát vàng cả một khúc sông. Anh lấy chân gảy nhẹ một hòn đá xuống sông, và tôi bắt chước theo. Hòn đá đập xuống đất rồi rơi xuống lòng sông, tạo ra âm thanh nhẹ hẫng làm mặt sông rung động. Qua những chuyến đi, tôi nhận ra rằng tình cảm tôi dành cho anh cũng lớn dần lên. Nhưng chính anh đã đập vỡ nó. Tôi không hề nói ra bất cứ lời nào về cảm giác của mình đâu nhé, và anh hình như cũng chẳng biết gì. Song, khi đi dọc con sông, tôi thấy anh như trầm lặng hơn thường ngày, bước đi chậm rãi và mắt mãi hướng ánh nhìn về một hướng. Nhìn theo hướng đôi mắt buồn màu biển kia, tôi thấy có một căn nhà trang nhã, sơn trắng với lối kiến trúc thật giản đơn. Anh thỏ thẻ với tôi rằng, trong đó có người con gái mà anh mang lòng thương yêu. Cô ấy vì anh mà giờ đây đi lại thật khó khăn, đa phần là dùng xe lăn để di chuyển. Câu chuyện của anh và cô thật buồn, cứa vào tim tôi những vệt dài. Anh hỏi tôi liệu giờ đây có phải tình yêu anh dành cho cô vẫn nguyên vẹn như ngày nào, hay chăng chỉ còn là lòng biết ơn, trách nhiệm và sự tội nghiệp thương cảm. Tôi muốn nói như thế lắm chứ, nhưng khi nhìn đôi mắt của anh, tôi không thể cất ra những lời đó. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn quả không sai, nó ánh lên tình yêu tròn vẹn của anh dành cho cô khi anh nhắc đến tên cô ấy. Tôi vỗ vai anh và cười, bảo:

-          Em không biết anh thế nào, nhưng qua đôi mắt anh, em thấy tình yêu anh dành cho cô ấy thật đẹp, vẹn nguyên tròn trịa. Can đảm lên anh, đến bên cô ấy và bù đắp lại những gì cô ấy đã cho anh. À không, phải cho đi vạn lần nữa kìa.

Tôi cười khì, đi nhanh một chút vượt khỏi tầm mắt anh, để anh không phải nhìn thấy giọt mước mắt khẽ lăn dài trên má tôi. Nhớ lại cái dòng tin nhắn hụt hơi của con bạn, tôi quệt nước mắt, cười thật tươi.

   “Ừ, đây chỉ là cơn cảm nắng thôi, rồi nay mai sẽ hết cảm mà”


   Chuyến bay sắp cất cánh, tôi ôm dì dượng và nhỏ em họ thật chặt. Anh cũng đến tiễn, hai tay đẩy một chiếc xe lăn có cô gái xinh đẹp ngồi trên đó. Lòng tôi se lại. Đôi mắt buồn qua cặp kính lần nữa thu hút sự chú ý của tôi. Tôi đến bên họ, chào cô gái rồi siết lấy bàn tay anh, chặt thật chặt, như muốn truyền lại tất cả các tâm tư tình cảm của tôi dành cho anh trong suốt những ngày hè Luân Đôn. Cười thật tươi, nhìn vào mắt anh nói:

-          Ghé Việt Nam nhé anh, dẫn theo cả cô ấy nữa. – Tôi nhìn cô gái mà đoán chắc là người anh yêu, cười. -  Lần này em sẽ là hướng dẫn viên cho hai người, mà Sài Gòn đẹp không kém gì ở đây đâu nhá. Hì hì. Cảm ơn anh về thời gian qua, nhớ facebook với em đó nhá.

-          Không, là anh phải cảm ơn em mới đúng. – Anh khẽ nói – Cảm ơn em, vì tất cả.



___________________________________________

   Tôi không biết bạn nghĩ gì, nhưng đó là cả một trải nghiệm đối với tôi. Tôi đã “đi” theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. “Đi” và trải nghiệm ở một phương trời xa lạ, học tập, thỏa mãn mơ ước của mình, cũng như “đi” qua cuộc đời của nhiều con người. hay ít nhất đó cũng là anh. Tôi “đi” rồi để lại nhiều điều phải nhớ. Và từ những bước đi ấy, tôi như trưởng thành hơn một chút. Anh cũng đã “đi”. Anh “đi” qua cuộc đời tôi, để lại nhiều dấu ấn mà mãi về sau có lẽ sẽ chẳng bảo giờ phai. Tôi không rõ mình đã khỏi cảm chưa, nhưng lần sau gặp lại, chắc chắn tôi sẽ cười thật tươi, nói với anh, cũng như với cô gái ấy:

-          WELCOME TO VIETNAM!

(Nếu tay trong tay với một cậu bạn nữa thì càng tốt, hì hì. Đùa thôi)


Messie Huỳnh

1 nhận xét: